Tổ chức Chứng nhận VietCert hoạt động trên các lĩnh vực: Chứng nhận hợp chuẩn sản phẩm, chứng nhận hợp quy sản phẩm, chứng nhận các hệ thống quản lý phù hợp tiêu chuẩn ISO 9001, ISO 14001, ISO 22000, Đào tạo kiến thức về quản lý,....
Thứ Hai, 13 tháng 11, 2017
Thứ Hai, 6 tháng 11, 2017
Thứ Sáu, 3 tháng 11, 2017
Chủ Nhật, 29 tháng 10, 2017
Sáu vấn đề quan tâm trong sản xuất vật liệu xây dựng
Vật liệu xây dựng được coi là cầu nối của
ngành công nghiệp-xây dựng. Sản xuất vật liệu xây dựng hiện có một số vấn đề
cần quan tâm.
Vấn đề thứ nhất, vừa là kết quả tích cực, vừa là vấn đề hiện nay,
là tốc độ tăng của vật liệu xây dựng (VLXD) nhìn chung cao hơn tốc độ tăng giá
trị sản xuất của ngành Xây dựng.
Theo đó, chỉ trừ một vài loại VLXD tăng thấp do không còn phù hợp hoặc đã được thay thế bằng một loại vật liệu khác, còn đều tăng cao hơn tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành Xây dựng. Tốc độ tăng của sản xuất VLXD đã đáp ứng được nhu cầu xây dựng ở trong nước và có một phần được dùng để xuất khẩu. Chủng loại, mẫu mã VLXD đã đa dạng, phong phú hơn, đẹp hơn; chất lượng một số loại đã được nâng lên.
Tuy nhiên, cũng có lúc sản xuất đã vượt nhu cầu, khối lượng nhập khẩu một số loại VLXD cũng còn lớn, nhất là một số vật liệu cơ bản như sắt, thép, gạch lát, đồ nội thất và thị trường bất động sản đóng băng kéo dài, đã làm cho cung vượt cầu, nên lượng tiêu thụ VLXD bị giảm, làm cho lượng sản phẩm sản xuất một vài năm nay bị sụt giảm theo. Cụ thể: gạch nung năm 2011 giảm 1,6%; thép cán năm 2011 giảm 3,9%, năm 2012 giảm 5,5%; xi măng năm 2012 giảm 3,1%,…
Vấn đề thứ hai, hầu hết các doanh nghiệp không khai thác hết năng lực sản xuất, tỷ lệ sử dụng công suất thấp. Theo Tiến sĩ Trần Văn Huynh, Chủ tịch Hội VLXD Việt Nam, tỷ lệ sử dụng công suất của kính xây dựng chỉ đạt dưới 50%, vật liệu không nung dưới 55%, gốm sứ dưới 70%, xi măng dưới 80%... Trong khi một số cơ sở sản xuất VLXD chưa sử dụng hết công suất thì một số cơ sở mới ra đời chẳng những sản xuất gặp khó khăn, mà còn bị nặng nợ bởi vốn đầu tư xây dựng…
Vấn đề thứ ba liên quan đến quy mô và thiết bị công nghệ. Bên cạnh một số nhà máy có quy mô lớn, thiết bị công nghệ tiên tiến, thì phần lớn các nhà máy sản xuất VLXD khác có quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, tiêu hao nhiều nguyên liệu, tiêu tốn nhiều năng lượng, gây ô nhiễm môi trường, hiệu quả và sức cạnh tranh với hàng ngoại nhập thấp, trong khi lao động có giá rẻ hơn, không phải mất chi phí vận chuyển từ nước ngoài về…
Vấn đề thứ tư là bảo vệ môi trường chưa được đặc biệt quan tâm, không chỉ ở công nghệ tiêu hao nhiên liệu như trên, mà còn là việc chậm sử dụng VLXD không nung thay thế cho gạch xây bằng đất nung, ngói nung… (đến năm 2012 vẫn còn sản xuất tới trên 19 tỷ viên gạch đất nung; 5 tháng 2013 tuy có giảm 2,9% so với cùng kỳ nhưng vẫn lên tới gần 6,6 tỷ viên; ngói nung năm 2012 vẫn còn sản xuất trên 560 triệu viên). Việc khai thác cát (không chỉ dùng ở trong nước mà cả xuất khẩu), sỏi, đá cuội… mỗi năm lên đến trên dưới 60 triệu m3, nhưng do việc quản lý chưa tốt đã gây sạt lở ở không ít vùng.
Vấn đề thứ năm là vấn đề quy hoạch. VLXD là ngành sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên, năng lượng, quá trình khai thác, sản xuất… dễ gây tác động xấu đến môi trường, nên quy hoạch là vấn đề rất quan trọng. Quy hoạch chung của cả nước chưa đủ chi tiết, quy hoạch ở một số địa phương hoặc chưa có hoặc có nhưng còn chồng chéo với quy hoạch của cả nước; có quy hoạch rồi nhưng chưa phát triển theo quy hoạch.
Vấn đề thứ sáu, trong 5 tháng đầu năm 2013, sản xuất VLXD nói chung đã tăng lên với tốc độ cao hơn của toàn ngành (như xi măng tăng 7,4%, thép cán tăng 17,4%, thép thanh, thép góc tăng 7,4%...). Điều này có thể là do các nhà sản xuất VLXD tăng sản xuất để đón thời cơ khi ngành xây dựng, thị trường bất động sản có tín hiệu khả quan hơn. Đây cũng là điều mừng cho doanh nghiệp và lao động đang làm việc trong các lĩnh vực nói trên. Tuy nhiên, cần quan tâm đến việc tái cơ cấu ngành này từ quy hoạch, công nghệ, hiệu quả và sức cạnh tranh để không bị hàng nhập khẩu chiếm thị phần.
Theo đó, chỉ trừ một vài loại VLXD tăng thấp do không còn phù hợp hoặc đã được thay thế bằng một loại vật liệu khác, còn đều tăng cao hơn tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành Xây dựng. Tốc độ tăng của sản xuất VLXD đã đáp ứng được nhu cầu xây dựng ở trong nước và có một phần được dùng để xuất khẩu. Chủng loại, mẫu mã VLXD đã đa dạng, phong phú hơn, đẹp hơn; chất lượng một số loại đã được nâng lên.
Tuy nhiên, cũng có lúc sản xuất đã vượt nhu cầu, khối lượng nhập khẩu một số loại VLXD cũng còn lớn, nhất là một số vật liệu cơ bản như sắt, thép, gạch lát, đồ nội thất và thị trường bất động sản đóng băng kéo dài, đã làm cho cung vượt cầu, nên lượng tiêu thụ VLXD bị giảm, làm cho lượng sản phẩm sản xuất một vài năm nay bị sụt giảm theo. Cụ thể: gạch nung năm 2011 giảm 1,6%; thép cán năm 2011 giảm 3,9%, năm 2012 giảm 5,5%; xi măng năm 2012 giảm 3,1%,…
Vấn đề thứ hai, hầu hết các doanh nghiệp không khai thác hết năng lực sản xuất, tỷ lệ sử dụng công suất thấp. Theo Tiến sĩ Trần Văn Huynh, Chủ tịch Hội VLXD Việt Nam, tỷ lệ sử dụng công suất của kính xây dựng chỉ đạt dưới 50%, vật liệu không nung dưới 55%, gốm sứ dưới 70%, xi măng dưới 80%... Trong khi một số cơ sở sản xuất VLXD chưa sử dụng hết công suất thì một số cơ sở mới ra đời chẳng những sản xuất gặp khó khăn, mà còn bị nặng nợ bởi vốn đầu tư xây dựng…
Vấn đề thứ ba liên quan đến quy mô và thiết bị công nghệ. Bên cạnh một số nhà máy có quy mô lớn, thiết bị công nghệ tiên tiến, thì phần lớn các nhà máy sản xuất VLXD khác có quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, tiêu hao nhiều nguyên liệu, tiêu tốn nhiều năng lượng, gây ô nhiễm môi trường, hiệu quả và sức cạnh tranh với hàng ngoại nhập thấp, trong khi lao động có giá rẻ hơn, không phải mất chi phí vận chuyển từ nước ngoài về…
Vấn đề thứ tư là bảo vệ môi trường chưa được đặc biệt quan tâm, không chỉ ở công nghệ tiêu hao nhiên liệu như trên, mà còn là việc chậm sử dụng VLXD không nung thay thế cho gạch xây bằng đất nung, ngói nung… (đến năm 2012 vẫn còn sản xuất tới trên 19 tỷ viên gạch đất nung; 5 tháng 2013 tuy có giảm 2,9% so với cùng kỳ nhưng vẫn lên tới gần 6,6 tỷ viên; ngói nung năm 2012 vẫn còn sản xuất trên 560 triệu viên). Việc khai thác cát (không chỉ dùng ở trong nước mà cả xuất khẩu), sỏi, đá cuội… mỗi năm lên đến trên dưới 60 triệu m3, nhưng do việc quản lý chưa tốt đã gây sạt lở ở không ít vùng.
Vấn đề thứ năm là vấn đề quy hoạch. VLXD là ngành sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên, năng lượng, quá trình khai thác, sản xuất… dễ gây tác động xấu đến môi trường, nên quy hoạch là vấn đề rất quan trọng. Quy hoạch chung của cả nước chưa đủ chi tiết, quy hoạch ở một số địa phương hoặc chưa có hoặc có nhưng còn chồng chéo với quy hoạch của cả nước; có quy hoạch rồi nhưng chưa phát triển theo quy hoạch.
Vấn đề thứ sáu, trong 5 tháng đầu năm 2013, sản xuất VLXD nói chung đã tăng lên với tốc độ cao hơn của toàn ngành (như xi măng tăng 7,4%, thép cán tăng 17,4%, thép thanh, thép góc tăng 7,4%...). Điều này có thể là do các nhà sản xuất VLXD tăng sản xuất để đón thời cơ khi ngành xây dựng, thị trường bất động sản có tín hiệu khả quan hơn. Đây cũng là điều mừng cho doanh nghiệp và lao động đang làm việc trong các lĩnh vực nói trên. Tuy nhiên, cần quan tâm đến việc tái cơ cấu ngành này từ quy hoạch, công nghệ, hiệu quả và sức cạnh tranh để không bị hàng nhập khẩu chiếm thị phần.
Ngành thép Việt Nam: Nghịch lý tăng trưởng mạnh nhưng vẫn phải nhập khẩu
Trong những gần đây, ngành
thép Việt Nam có mức tăng trưởng tương đối cao. Để tiếp tục đẩy mạnh tốc độ
tăng trưởng trong thời gian tới, các doanh nghiệp phải tập trung hơn nữa cho
các vấn đề mở rộng, hoàn thiện chuỗi giá trị để tạo giá trị gia tăng cao hơn
cho ngành.
* Nghịch lý tăng trưởng mạnh song vẫn phải nhập
khẩu
Theo số liệu của Hiệp hội Thép
Việt Nam, trong năm 2016, Việt Nam đã sản xuất được 3,6 triệu tấn thép cuộn
nguội (CRC), 8,6 triệu tấn thép xây dựng và 5,45 triệu tấn các sản phẩm ống
thép, tôn mạ. Từ năm 2013 - 2016, sản lượng thép sản xuất và tiêu thụ tăng
trưởng trung bình 21,64% và 25,7%.
Đặc biệt, từ cuối năm 2016 đến
nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã chứng kiến một năm bùng nổ của các
doanh nghiệp ngành thép. Tính trung bình, các doanh nghiệp trong ngành đã tăng
trưởng doanh thu 14,34% và lợi nhuận 81,65%, giúp giá cổ phiếu chung tăng
trưởng 91%.
Lý giải việc sản lượng tiêu thụ
của các doanh nghiệp thép đều tăng mạnh, ông Võ Nguyễn Khoa Tuấn, Giám đốc
nghiệp vụ Quỹ Dragon Capital cho rằng, trước hết là nhờ sự phục hồi của thị
trường bất động sản cùng với nhu cầu xây dựng căn hộ tăng cao giúp các doanh
nghiệp thép trong nước hoạt động gần như tối đa công suất. Cùng với đó, giá
thép thế giới phục hồi mạnh, kéo theo sự phục hồi của giá thép trong nước giúp
các doanh nghiệp như Hòa Phát, Hoa Sen và Nam Kim mở rộng biên lợi nhuận gộp.
Phát biểu tại “Đối thoại ngành
thép: Triển vọng 2017- 2020" (ngày 12-6-2017), ông Khổng Phan Đức, Tổng
Giám đốc VietinbankSC cho biết, ngành thép Việt Nam tuy có quy mô không lớn,
nhưng vẫn có lợi thế cạnh tranh riêng, đặc biệt là chi phí sản xuất rất cạnh
tranh so với các nước khác.
Thêm vào đó, dư địa phát triển
ngành thép tại Việt Nam vẫn còn rất lớn do nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng ở
các tỉnh, thành phố lớn cũng như tốc độ đô thị hóa phát triển nhanh tại các
vùng nông thôn.
Ngoài ra còn do, lượng thép
tiêu thụ/đầu người của Việt Nam vẫn còn thấp khi so với các quốc gia phát triển
khác. Theo số liệu 2015, lượng thép tiêu thụ tại Việt Nam đạt 195 kg/người,
thấp hơn nhiều so với Trung Quốc (489 kg/người), Nhật Bản (497 kg/người), Mỹ
(297 kg/người) hay Hàn Quốc (1.136 kg/người). Điều này thể hiện ngành thép
trong tương lai vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển.
Tuy nhiên, có một nghịch lý
đang tồn tại là thị trường thép Việt Nam thừa năng lực sản xuất song vẫn phải
nhập khẩu, mà còn nhập số lượng lớn. Nguyên nhân là do chuỗi giá trị của ngành
thép nội địa chưa được hoàn thiện nên mới chỉ đáp ứng đủ nhu cầu thép xây dựng,
thép cán nguội, ống thép và tôn mạ kim loại và sơn phủ màu (một số sản phẩm như
tôn mạ màu, ống thép… còn được xuất khẩu sang các quốc gia khác) nhưng vẫn phải
nhập rất nhiều sản phẩm thép cuộn cán nóng (HRC), thép chế tạo, thép hợp kim…
Năm 2016, sản lượng thép nhập
khẩu là 22,7 triệu tấn, trong đó thép hợp kim chiếm 27%, HRC chiếm 24,6% và
thép phế 17%. Dự kiến, lượng nhập siêu của ngành thép trong vòng 5 năm tới được
kỳ vọng giảm dần khi Hòa Phát và Formosa bắt đầu sản xuất HRC.
* Ngành thép Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng ở
mức từ 12% - 15%
Hiệp hội thép Việt Nam dự báo,
trong 5 năm tới, ngành thép Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng ở mức từ 12% -
15%. Năm 2017, dự kiến sản lượng gang tăng 80%, đạt 4,5 triệu tấn; phôi thép
tăng 47,2% (11,5 triệu tấn); thép thành phẩm tăng 12% (20 triệu tấn); thép xây
dựng tăng 11%; thép lá cuộn cán nguội tăng 13%; thép ống hàn tăng 15%; tôn mạ
và sơn phủ màu tăng 12%.
Tại buổi đối thoại, các diễn
giả cũng đề ra triển vọng phát triển ngành đến năm 2020, cụ thể sản lượng sản
xuất theo dự báo sẽ tăng từ 18 triệu tấn (2016) lên đến xấp xỉ 26 triệu tấn
(2020).
Để phát triển ngành thép cũng
như tiếp tục đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng ngành thép, ông Nguyễn Văn Sưa, Phó
Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam cho rằng, các doanh nghiệp phải tập trung hơn
nữa cho các vấn đề mở rộng, khai thác điểm khuyết trong chuỗi giá trị để tạo
giá trị gia tăng cao hơn cho ngành thông qua cải tiến công nghệ, dây chuyền sản
xuất.
Đồng quan điểm, ông Phạm Mạnh
Hùng, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Thép Nam Kim cho rằng, doanh nghiệp ngành
thép cần tăng cường đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm, tối ưu hóa quy mô sản xuất với
quy trình khép kín. Từ đó, doanh nghiệp từng bước giảm chi phí sản xuất, nâng
cao khả năng cạnh tranh về giá, kể cả so với sản phẩm nhập khẩu.
Bên cạnh đó, các chuyên gia
cũng tỏ ra lo ngại về các FTA đã và đang ký kết sẽ tạo nên áp lực cạnh tranh
đối với các doanh nghiệp thép Việt Nam sẽ ngày càng lớn. Để đối mặt với áp lực
cạnh tranh trên, các diễn giả cho rằng các doanh nghiệp cần phải hoàn thiện,
nâng cao chuỗi giá trị.
Về việc áp thuế tự vệ chống bán
phá giá, Bộ Công Thương đã áp dụng thuế tự vệ bổ sung đối với phôi thép và thép
dài trong 4 năm. Mỗi năm, mức thuế tự vệ bổ sung sẽ giảm từ 1-2% và giảm về 0
trong tháng 3-2020 nếu không có quyết định gia hạn. Theo các chuyên gia, những
doanh nghiệp sản xuất phôi sẽ được hưởng lợi mạnh mẽ, trong khi những doanh
nghiệp thép xây dựng nhỏ với công nghệ chưa cao, phải nhập phôi thép về làm
nguyên liệu sẽ bị ảnh hưởng đáng kể khi phôi thép bị đánh thuế tự vệ 23%.
Theo ông Võ Nguyễn Khoa Tuấn,
đây là một chính sách hoàn toàn đúng đắn của Chính phủ Việt Nam. Cuối 2015,
giữa 2016, sản lượng tôn mạ Trung Quốc ước tính chiếm 50% thị phần tại Việt
Nam. Vì vậy, việc áp thuế là cần thiết nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
có thời gian đầu tư công nghệ, nguồn lực để cạnh tranh với thành phẩm Trung
Quốc./.
Thứ Năm, 26 tháng 10, 2017
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)


















