Trong những gần đây, ngành
thép Việt Nam có mức tăng trưởng tương đối cao. Để tiếp tục đẩy mạnh tốc độ
tăng trưởng trong thời gian tới, các doanh nghiệp phải tập trung hơn nữa cho
các vấn đề mở rộng, hoàn thiện chuỗi giá trị để tạo giá trị gia tăng cao hơn
cho ngành.
* Nghịch lý tăng trưởng mạnh song vẫn phải nhập
khẩu
Theo số liệu của Hiệp hội Thép
Việt Nam, trong năm 2016, Việt Nam đã sản xuất được 3,6 triệu tấn thép cuộn
nguội (CRC), 8,6 triệu tấn thép xây dựng và 5,45 triệu tấn các sản phẩm ống
thép, tôn mạ. Từ năm 2013 - 2016, sản lượng thép sản xuất và tiêu thụ tăng
trưởng trung bình 21,64% và 25,7%.
Đặc biệt, từ cuối năm 2016 đến
nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã chứng kiến một năm bùng nổ của các
doanh nghiệp ngành thép. Tính trung bình, các doanh nghiệp trong ngành đã tăng
trưởng doanh thu 14,34% và lợi nhuận 81,65%, giúp giá cổ phiếu chung tăng
trưởng 91%.
Lý giải việc sản lượng tiêu thụ
của các doanh nghiệp thép đều tăng mạnh, ông Võ Nguyễn Khoa Tuấn, Giám đốc
nghiệp vụ Quỹ Dragon Capital cho rằng, trước hết là nhờ sự phục hồi của thị
trường bất động sản cùng với nhu cầu xây dựng căn hộ tăng cao giúp các doanh
nghiệp thép trong nước hoạt động gần như tối đa công suất. Cùng với đó, giá
thép thế giới phục hồi mạnh, kéo theo sự phục hồi của giá thép trong nước giúp
các doanh nghiệp như Hòa Phát, Hoa Sen và Nam Kim mở rộng biên lợi nhuận gộp.
Phát biểu tại “Đối thoại ngành
thép: Triển vọng 2017- 2020" (ngày 12-6-2017), ông Khổng Phan Đức, Tổng
Giám đốc VietinbankSC cho biết, ngành thép Việt Nam tuy có quy mô không lớn,
nhưng vẫn có lợi thế cạnh tranh riêng, đặc biệt là chi phí sản xuất rất cạnh
tranh so với các nước khác.
Thêm vào đó, dư địa phát triển
ngành thép tại Việt Nam vẫn còn rất lớn do nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng ở
các tỉnh, thành phố lớn cũng như tốc độ đô thị hóa phát triển nhanh tại các
vùng nông thôn.
Ngoài ra còn do, lượng thép
tiêu thụ/đầu người của Việt Nam vẫn còn thấp khi so với các quốc gia phát triển
khác. Theo số liệu 2015, lượng thép tiêu thụ tại Việt Nam đạt 195 kg/người,
thấp hơn nhiều so với Trung Quốc (489 kg/người), Nhật Bản (497 kg/người), Mỹ
(297 kg/người) hay Hàn Quốc (1.136 kg/người). Điều này thể hiện ngành thép
trong tương lai vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển.
Tuy nhiên, có một nghịch lý
đang tồn tại là thị trường thép Việt Nam thừa năng lực sản xuất song vẫn phải
nhập khẩu, mà còn nhập số lượng lớn. Nguyên nhân là do chuỗi giá trị của ngành
thép nội địa chưa được hoàn thiện nên mới chỉ đáp ứng đủ nhu cầu thép xây dựng,
thép cán nguội, ống thép và tôn mạ kim loại và sơn phủ màu (một số sản phẩm như
tôn mạ màu, ống thép… còn được xuất khẩu sang các quốc gia khác) nhưng vẫn phải
nhập rất nhiều sản phẩm thép cuộn cán nóng (HRC), thép chế tạo, thép hợp kim…
Năm 2016, sản lượng thép nhập
khẩu là 22,7 triệu tấn, trong đó thép hợp kim chiếm 27%, HRC chiếm 24,6% và
thép phế 17%. Dự kiến, lượng nhập siêu của ngành thép trong vòng 5 năm tới được
kỳ vọng giảm dần khi Hòa Phát và Formosa bắt đầu sản xuất HRC.
* Ngành thép Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng ở
mức từ 12% - 15%
Hiệp hội thép Việt Nam dự báo,
trong 5 năm tới, ngành thép Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng ở mức từ 12% -
15%. Năm 2017, dự kiến sản lượng gang tăng 80%, đạt 4,5 triệu tấn; phôi thép
tăng 47,2% (11,5 triệu tấn); thép thành phẩm tăng 12% (20 triệu tấn); thép xây
dựng tăng 11%; thép lá cuộn cán nguội tăng 13%; thép ống hàn tăng 15%; tôn mạ
và sơn phủ màu tăng 12%.
Tại buổi đối thoại, các diễn
giả cũng đề ra triển vọng phát triển ngành đến năm 2020, cụ thể sản lượng sản
xuất theo dự báo sẽ tăng từ 18 triệu tấn (2016) lên đến xấp xỉ 26 triệu tấn
(2020).
Để phát triển ngành thép cũng
như tiếp tục đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng ngành thép, ông Nguyễn Văn Sưa, Phó
Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam cho rằng, các doanh nghiệp phải tập trung hơn
nữa cho các vấn đề mở rộng, khai thác điểm khuyết trong chuỗi giá trị để tạo
giá trị gia tăng cao hơn cho ngành thông qua cải tiến công nghệ, dây chuyền sản
xuất.
Đồng quan điểm, ông Phạm Mạnh
Hùng, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Thép Nam Kim cho rằng, doanh nghiệp ngành
thép cần tăng cường đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm, tối ưu hóa quy mô sản xuất với
quy trình khép kín. Từ đó, doanh nghiệp từng bước giảm chi phí sản xuất, nâng
cao khả năng cạnh tranh về giá, kể cả so với sản phẩm nhập khẩu.
Bên cạnh đó, các chuyên gia
cũng tỏ ra lo ngại về các FTA đã và đang ký kết sẽ tạo nên áp lực cạnh tranh
đối với các doanh nghiệp thép Việt Nam sẽ ngày càng lớn. Để đối mặt với áp lực
cạnh tranh trên, các diễn giả cho rằng các doanh nghiệp cần phải hoàn thiện,
nâng cao chuỗi giá trị.
Về việc áp thuế tự vệ chống bán
phá giá, Bộ Công Thương đã áp dụng thuế tự vệ bổ sung đối với phôi thép và thép
dài trong 4 năm. Mỗi năm, mức thuế tự vệ bổ sung sẽ giảm từ 1-2% và giảm về 0
trong tháng 3-2020 nếu không có quyết định gia hạn. Theo các chuyên gia, những
doanh nghiệp sản xuất phôi sẽ được hưởng lợi mạnh mẽ, trong khi những doanh
nghiệp thép xây dựng nhỏ với công nghệ chưa cao, phải nhập phôi thép về làm
nguyên liệu sẽ bị ảnh hưởng đáng kể khi phôi thép bị đánh thuế tự vệ 23%.
Theo ông Võ Nguyễn Khoa Tuấn,
đây là một chính sách hoàn toàn đúng đắn của Chính phủ Việt Nam. Cuối 2015,
giữa 2016, sản lượng tôn mạ Trung Quốc ước tính chiếm 50% thị phần tại Việt
Nam. Vì vậy, việc áp thuế là cần thiết nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
có thời gian đầu tư công nghệ, nguồn lực để cạnh tranh với thành phẩm Trung
Quốc./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét