Thứ Hai, 13 tháng 11, 2017

Những vấn đề của TACN 2016

Cam kết chăn nuôi không chất cấm
Ngày 1/4/2016, Cục Chăn nuôi đã có Công văn số 391/CN-GSN gửi Sở NN&PTNT các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc thực hiện phong trào ký cam kết chăn nuôi an toàn, không sử dụng chất cấm. Tính đến đầu tháng 6, phong trào đã triển khai tại 55/63 tỉnh, thành phố trên cả nước. Thống kê từ các địa phương cho thấy, trong 285.878 hộ đã ký cam kết có 276.065 hộ chăn nuôi, chiếm 96,6% và 9.813 hộ thuộc đối tượng khác có liên quan (hộ kinh doanh thức ăn chăn nuôi, hộ kinh doanh thuốc thú y và giết mổ gia súc, gia cầm), chiếm 3,4%
Nhập khẩu thức ăn chăn nuôi tăng
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, 11 tháng đầu năm 2016, Việt Nam đã chi hơn 3 tỷ USD nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu, tăng 1,23% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, nhập khẩu mặt hàng này của Việt Nam từ một số thị trường có kim ngạch tăng trưởng mạnh, đứng đầu là Nhật Bản với 4 triệu USD, tăng 72,2% so cùng kỳ; thứ hai là Trung Quốc với hơn 245 triệu USD, tăng 46,34%; UAE với gần 71 triệu USD, tăng 45,29%; Malaysia với gần 32 triệu USD, tăng 41,74%. Các thị trường chính cung cấp cho Việt Nam vẫn là Achentina, Mỹ, Trung Quốc và Áo… Trong đó, Achentina là thị trường chủ yếu Việt Nam nhập khẩu mặt hàng này với hơn 1,4 tỷ USD, chiếm 46,5% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng, tăng 10,69% so với cùng kỳ năm ngoái.
 Tuyên chiến với kháng sinh
Năm 2016, Bộ NN&PTNT xác định tiếp tục đưa việc kiểm soát kháng sinh trong chăn nuôi vào chương trình trọng điểm, tuyên chiến với kháng sinh như làm với chất cấm. Mục đích vẫn là để người tiêu dùng được sử dụng những thực phẩm an toàn hơn.
Những con số thống kê cho thấy, hiện có đến 5% thuốc kháng sinh đang bị lạm dụng dùng trong nông nghiệp, đặc biệt trong chăn nuôi nhằm tăng năng suất song lại đe dọa sức khỏe người tiêu dùng. Cùng đó, kết quả điều tra của Cục Chăn nuôi cho thấy, tại 94 nhà máy sản xuất, kinh doanh thức ăn chăn nuôi công nghiệp trên địa bàn 18 tỉnh, thành phố cả nước cho thấy, nhiều cơ sở sử dụng hàm lượng kháng sinh trong sản xuất thức ăn cho gà, lợn cao hơn mức quy định. Điều này dẫn tới nguy cơ làm tăng tồn dư kháng sinh trong sản phẩm và “nhờn” kháng sinh đối với vật nuôi.
Xử lý hình sự hành vi sử dụng chất cấm
Theo quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, từ ngày 1/7/2016, hành vi sử dụng chất cấm trong chăn nuôi sẽ bị xử lý hình sự. Cụ thể, các tội: Sản xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190); Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (Điều 191); Sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm (Điều 193): Vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm (Điều 317) quy định, các cá nhân, tổ chức sử dụng các hóa chất, phụ gia bị cấm trong thực phẩm và thức ăn chăn nuôi sẽ bị phạt hành chính từ 50 đến 200 triệu đồng, phạt tù từ 1 đến 5 năm. Trường hợp nặng có thể bị phạt tiền 1 tỷ đồng, phạt tù 20 năm.
Như vậy theo những quy định mới này, chỉ cần cấu thành hình thức, thay vì cấu thành vật chất như cũ là có thể có căn cứ để xử phạt. Tội sử dụng chất cấm trong chăn nuôi sẽ bị xử lý hình sự, cấu thành các tội liên quan đến sức khỏe, tính mạng con người.

Đánh giá chứng nhận công ty Bao bì dược















Đánh giá giám sát công ty Hoàn Thiện








Chủ Nhật, 29 tháng 10, 2017

Sáu vấn đề quan tâm trong sản xuất vật liệu xây dựng

Vật liệu xây dựng được coi là cầu nối của ngành công nghiệp-xây dựng. Sản xuất vật liệu xây dựng hiện có một số vấn đề cần quan tâm.
Vấn đề thứ nhất, vừa là kết quả tích cực, vừa là vấn đề hiện nay, là tốc độ tăng của vật liệu xây dựng (VLXD) nhìn chung cao hơn tốc độ tăng giá trị sản xuất của ngành Xây dựng.

Theo đó, chỉ trừ một vài loại VLXD tăng thấp do không còn phù hợp hoặc đã được thay thế bằng một loại vật liệu khác, còn đều tăng cao hơn tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành Xây dựng. Tốc độ tăng của sản xuất VLXD đã đáp ứng được nhu cầu xây dựng ở trong nước và có một phần được dùng để xuất khẩu. Chủng loại, mẫu mã VLXD đã đa dạng, phong phú hơn, đẹp hơn; chất lượng một số loại đã được nâng lên.

Tuy nhiên, cũng có lúc sản xuất đã vượt nhu cầu, khối lượng nhập khẩu một số loại VLXD cũng còn lớn, nhất là một số vật liệu cơ bản như sắt, thép, gạch lát, đồ nội thất và thị trường bất động sản đóng băng kéo dài, đã làm cho cung vượt cầu, nên lượng tiêu thụ VLXD bị giảm, làm cho lượng sản phẩm sản xuất một vài năm nay bị sụt giảm theo. Cụ thể: gạch nung năm 2011 giảm 1,6%; thép cán năm 2011 giảm 3,9%, năm 2012 giảm 5,5%; xi măng năm 2012 giảm 3,1%,…

Vấn đề thứ hai, hầu hết các doanh nghiệp không khai thác hết năng lực sản xuất, tỷ lệ sử dụng công suất thấp. Theo Tiến sĩ Trần Văn Huynh, Chủ tịch Hội VLXD Việt Nam, tỷ lệ sử dụng công suất của kính xây dựng chỉ đạt dưới 50%, vật liệu không nung dưới 55%, gốm sứ dưới 70%, xi măng dưới 80%... Trong khi một số cơ sở sản xuất VLXD chưa sử dụng hết công suất thì một số cơ sở mới ra đời chẳng những sản xuất gặp khó khăn, mà còn bị nặng nợ bởi vốn đầu tư xây dựng…

Vấn đề thứ ba liên quan đến quy mô và thiết bị công nghệ. Bên cạnh một số nhà máy có quy mô lớn, thiết bị công nghệ tiên tiến, thì phần lớn các nhà máy sản xuất VLXD khác có quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, tiêu hao nhiều nguyên liệu, tiêu tốn nhiều năng lượng, gây ô nhiễm môi trường, hiệu quả và sức cạnh tranh với hàng ngoại nhập thấp, trong khi lao động có giá rẻ hơn, không phải mất chi phí vận chuyển từ nước ngoài về…

Vấn đề thứ tư là bảo vệ môi trường chưa được đặc biệt quan tâm, không chỉ ở công nghệ tiêu hao nhiên liệu như trên, mà còn là việc chậm sử dụng VLXD không nung thay thế cho gạch xây bằng đất nung, ngói nung… (đến năm 2012 vẫn còn sản xuất tới trên 19 tỷ viên gạch đất nung; 5 tháng 2013 tuy có giảm 2,9% so với cùng kỳ nhưng vẫn lên tới gần 6,6 tỷ viên; ngói nung năm 2012 vẫn còn sản xuất trên 560 triệu viên). Việc khai thác cát (không chỉ dùng ở trong nước mà cả xuất khẩu), sỏi, đá cuội… mỗi năm lên đến trên dưới 60 triệu m3, nhưng do việc quản lý chưa tốt đã gây sạt lở ở không ít vùng.

Vấn đề thứ năm là vấn đề quy hoạch. VLXD là ngành sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên, năng lượng, quá trình khai thác, sản xuất… dễ gây tác động xấu đến môi trường, nên quy hoạch là vấn đề rất quan trọng. Quy hoạch chung của cả nước chưa đủ chi tiết, quy hoạch ở một số địa phương hoặc chưa có hoặc có nhưng còn chồng chéo với quy hoạch của cả nước; có quy hoạch rồi nhưng chưa phát triển theo quy hoạch.

Vấn đề thứ sáu, trong 5 tháng đầu năm 2013, sản xuất VLXD nói chung đã tăng lên với tốc độ cao hơn của toàn ngành (như xi măng tăng 7,4%, thép cán tăng 17,4%, thép thanh, thép góc tăng 7,4%...). Điều này có thể là do các nhà sản xuất VLXD tăng sản xuất để đón thời cơ khi ngành xây dựng, thị trường bất động sản có tín hiệu khả quan hơn. Đây cũng là điều mừng cho doanh nghiệp và lao động đang làm việc trong các lĩnh vực nói trên. Tuy nhiên, cần quan tâm đến việc tái cơ cấu ngành này từ quy hoạch, công nghệ, hiệu quả và sức cạnh tranh để không bị hàng nhập khẩu chiếm thị phần.


Ngành thép Việt Nam: Nghịch lý tăng trưởng mạnh nhưng vẫn phải nhập khẩu

Trong những gần đây, ngành thép Việt Nam có mức tăng trưởng tương đối cao. Để tiếp tục đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng trong thời gian tới, các doanh nghiệp phải tập trung hơn nữa cho các vấn đề mở rộng, hoàn thiện chuỗi giá trị để tạo giá trị gia tăng cao hơn cho ngành.
Nghịch lý tăng trưởng mạnh song vẫn phải nhập khẩu
Theo số liệu của Hiệp hội Thép Việt Nam, trong năm 2016, Việt Nam đã sản xuất được 3,6 triệu tấn thép cuộn nguội (CRC), 8,6 triệu tấn thép xây dựng và 5,45 triệu tấn các sản phẩm ống thép, tôn mạ. Từ năm 2013 - 2016, sản lượng thép sản xuất và tiêu thụ tăng trưởng trung bình 21,64% và 25,7%.
Đặc biệt, từ cuối năm 2016 đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã chứng kiến một năm bùng nổ của các doanh nghiệp ngành thép. Tính trung bình, các doanh nghiệp trong ngành đã tăng trưởng doanh thu 14,34% và lợi nhuận 81,65%, giúp giá cổ phiếu chung tăng trưởng 91%.
Lý giải việc sản lượng tiêu thụ của các doanh nghiệp thép đều tăng mạnh, ông Võ Nguyễn Khoa Tuấn, Giám đốc nghiệp vụ Quỹ Dragon Capital cho rằng, trước hết là nhờ sự phục hồi của thị trường bất động sản cùng với nhu cầu xây dựng căn hộ tăng cao giúp các doanh nghiệp thép trong nước hoạt động gần như tối đa công suất. Cùng với đó, giá thép thế giới phục hồi mạnh, kéo theo sự phục hồi của giá thép trong nước giúp các doanh nghiệp như Hòa Phát, Hoa Sen và Nam Kim mở rộng biên lợi nhuận gộp.
Phát biểu tại “Đối thoại ngành thép: Triển vọng 2017- 2020" (ngày 12-6-2017), ông Khổng Phan Đức, Tổng Giám đốc VietinbankSC cho biết, ngành thép Việt Nam tuy có quy mô không lớn, nhưng vẫn có lợi thế cạnh tranh riêng, đặc biệt là chi phí sản xuất rất cạnh tranh so với các nước khác.
Thêm vào đó, dư địa phát triển ngành thép tại Việt Nam vẫn còn rất lớn do nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng ở các tỉnh, thành phố lớn cũng như tốc độ đô thị hóa phát triển nhanh tại các vùng nông thôn.
Ngoài ra còn do, lượng thép tiêu thụ/đầu người của Việt Nam vẫn còn thấp khi so với các quốc gia phát triển khác. Theo số liệu 2015, lượng thép tiêu thụ tại Việt Nam đạt 195 kg/người, thấp hơn nhiều so với Trung Quốc (489 kg/người), Nhật Bản (497 kg/người), Mỹ (297 kg/người) hay Hàn Quốc (1.136 kg/người). Điều này thể hiện ngành thép trong tương lai vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển.
Tuy nhiên, có một nghịch lý đang tồn tại là thị trường thép Việt Nam thừa năng lực sản xuất song vẫn phải nhập khẩu, mà còn nhập số lượng lớn. Nguyên nhân là do chuỗi giá trị của ngành thép nội địa chưa được hoàn thiện nên mới chỉ đáp ứng đủ nhu cầu thép xây dựng, thép cán nguội, ống thép và tôn mạ kim loại và sơn phủ màu (một số sản phẩm như tôn mạ màu, ống thép… còn được xuất khẩu sang các quốc gia khác) nhưng vẫn phải nhập rất nhiều sản phẩm thép cuộn cán nóng (HRC), thép chế tạo, thép hợp kim…
Năm 2016, sản lượng thép nhập khẩu là 22,7 triệu tấn, trong đó thép hợp kim chiếm 27%, HRC chiếm 24,6% và thép phế 17%. Dự kiến, lượng nhập siêu của ngành thép trong vòng 5 năm tới được kỳ vọng giảm dần khi Hòa Phát và Formosa bắt đầu sản xuất HRC.
Ngành thép Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng ở mức từ 12% - 15%
Hiệp hội thép Việt Nam dự báo, trong 5 năm tới, ngành thép Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng ở mức từ 12% - 15%. Năm 2017, dự kiến sản lượng gang tăng 80%, đạt 4,5 triệu tấn; phôi thép tăng 47,2% (11,5 triệu tấn); thép thành phẩm tăng 12% (20 triệu tấn); thép xây dựng tăng 11%; thép lá cuộn cán nguội tăng 13%; thép ống hàn tăng 15%; tôn mạ và sơn phủ màu tăng 12%.
Tại buổi đối thoại, các diễn giả cũng đề ra triển vọng phát triển ngành đến năm 2020, cụ thể sản lượng sản xuất theo dự báo sẽ tăng từ 18 triệu tấn (2016) lên đến xấp xỉ 26 triệu tấn (2020).
Để phát triển ngành thép cũng như tiếp tục đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng ngành thép, ông Nguyễn Văn Sưa, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam cho rằng, các doanh nghiệp phải tập trung hơn nữa cho các vấn đề mở rộng, khai thác điểm khuyết trong chuỗi giá trị để tạo giá trị gia tăng cao hơn cho ngành thông qua cải tiến công nghệ, dây chuyền sản xuất.
Đồng quan điểm, ông Phạm Mạnh Hùng, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Thép Nam Kim cho rằng, doanh nghiệp ngành thép cần tăng cường đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm, tối ưu hóa quy mô sản xuất với quy trình khép kín. Từ đó, doanh nghiệp từng bước giảm chi phí sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh về giá, kể cả so với sản phẩm nhập khẩu.
Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng tỏ ra lo ngại về các FTA đã và đang ký kết sẽ tạo nên áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp thép Việt Nam sẽ ngày càng lớn. Để đối mặt với áp lực cạnh tranh trên, các diễn giả cho rằng các doanh nghiệp cần phải hoàn thiện, nâng cao chuỗi giá trị.
Về việc áp thuế tự vệ chống bán phá giá, Bộ Công Thương đã áp dụng thuế tự vệ bổ sung đối với phôi thép và thép dài trong 4 năm. Mỗi năm, mức thuế tự vệ bổ sung sẽ giảm từ 1-2% và giảm về 0 trong tháng 3-2020 nếu không có quyết định gia hạn. Theo các chuyên gia, những doanh nghiệp sản xuất phôi sẽ được hưởng lợi mạnh mẽ, trong khi những doanh nghiệp thép xây dựng nhỏ với công nghệ chưa cao, phải nhập phôi thép về làm nguyên liệu sẽ bị ảnh hưởng đáng kể khi phôi thép bị đánh thuế tự vệ 23%.
Theo ông Võ Nguyễn Khoa Tuấn, đây là một chính sách hoàn toàn đúng đắn của Chính phủ Việt Nam. Cuối 2015, giữa 2016, sản lượng tôn mạ Trung Quốc ước tính chiếm 50% thị phần tại Việt Nam. Vì vậy, việc áp thuế là cần thiết nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thời gian đầu tư công nghệ, nguồn lực để cạnh tranh với thành phẩm Trung Quốc./.